Máy tính cơ học - Tiền thân của máy tính điện tử dụng cụ tính hạnh số học trước tiên được biết đến là chiếc bàn tính (Abucus) được sử dụng bởi những người Sumer, người và người Ai Cập vào 2000 năm trước công nguyên. Sau đó, bàn tính được sử dụng rộng rãi ở các nước Châu Á, châu Phi và nhiều vùng lãnh thổ khác đốn bởi các doanh gia.
Chiếc bàn tính của người La Mã Đến thời kỳ Phục Hưng, năm 1642, nhân kiệt toán học Blaise Pascal (1623-1662) phát minh ra máy tính cơ học, thiết bị trước nhất có thể thực hành các phép tính căn bản mà không cần dùng trí não của con người. Thiết bị có thể thực hành trực tiếp phép tính cộng và trừ, phép nhân và chia được thực hành theo phương pháp lặp lại nhiều lần phép cộng.
Máy đếm của Pascal có kèm theo chữ ký của ông vào năm 1652 Video biểu thị cách hoạt động của máy đếm Pascal Theo sau Pascal là Gottfried Leibniz (1646-1716), nhà toán học người Đức đã dành 40 năm để thiết kế máy tính cơ học có thể thực hiện được 4 phép tính căn bản cộng, trừ, nhân, chia một cách trực tiếp. Công trình của ông chỉ dừng lại ở bánh xe Leibniz mà chưa đưa ra được một cỗ máy tính toán hoàn thiện. Bánh xe Leibniz là một ống hình trụ với các rãnh bên ngoài có độ dài tăng dần được dùng để đếm số lần quay của bánh răng. Bánh xe Leibniz nổi tiếng này được tiếp dùng rộng rãi trong các máy tính cơ khí cho đến khi máy tính điện tử ra đời.
Hoạt động của bánh xe Leibniz Đến thế kỷ 18, thế giới chứng kiến được nhiều cải tiến hích từ chiếc máy tính cơ ban sơ. Đặc biệt phải kể đến là chiếc đồng hồ tính toán có khả năng thực hiện được 4 phép tính của Giovanni Poleni (1683-1761), một nhà vật lý và toán học người Ý, nhưng đây chỉ là một đóng góp cho sự phát triển của máy tính chứ chưa phải là một thiết bị hoàn chỉnh. Mãi cho đến thế kỷ 19 với cuộc các mạng công nghiệp mới là thời kỳ máy tính cơ được phổ quát rộng rãi. Thời gian này, những chiếc máy tính cơ trong quá cố được đưa vào sinh sản công nghiệp với số lượng lớn và mẫu mã hiện đại hơn. Đến năm 1820, máy đếm còn gọi là máy cộng dồn tích (Arithmometer hoặc Arithmomètre) được phát minh bởi nhà nhà phát minh người Pháp Thomas de Colmar (1785-1870). Đây là chiếc máy tính cơ đầu tiên đủ mạnh và độ tin tức để dùng trong công việc hàng ngày tại các văn phòng. Thiết bị được cấp bằng sáng chế vào 1820 và sinh sản thương nghiệp từ năm 1851. Arithmometer có thể thực hành được chuỗi các phép cộng và trừ một cách trực tiếp, thực hiện phép nhân số lớn và cho ra kết quả được dồn tích và ghi trên một dải ruy băng. 40 năm sau, tính đến năm 1890 đã có khoảng 2500 chiếc máy đếm được sản xuất thương nghiệp và bán ra thị trường. Đây là bước tiến quan trọng trong quá trình chuyển tâm tính bằng trí óc con người sang sử dụng máy móc vào nửa sau thế kỷ 19.
Máy cộng dồn tích Arithmomètre Năm 1902, chiếc máy tính đầu tiên có sử dụng phím bấm mang tên Máy cộng Dalton được phát minh bởi nhà phát minh người Mỹ James L. Dalton (1833-1887).
Máy tính có phím bấm trước hết của Dalton Năm 1948, Curt Herzstark (1902-1988), một kỹ sư người Australia đã phát minh ra máy tính cơ Curtas có khả năng thực hiện được 4 phép tính căn bản, song song có thể thực hiện được phép rút căn bậc 2 và một số phép toán khác dù khá khó khăn. Máy tính cơ Curtas kế thừa bánh xe đếm nức tiếng của Leibniz phối hợp với máy đếm của Thomas để tạo nên một thiết bị tính hình trụ nhỏ gọn trong lòng bàn tay được vận hành bằng một tay quay phía trên. Dù giá thành sinh sản khá đắt tiền, Curtas được xem là máy tính cơ xách tay tốt nhất mãi cho đến sự ra đời của máy tính điện tử sau này.
Máy tính cơ Curtas của Curt Herzstark Video phương pháp hoạt động của máy tính cơ Curtas Sự ra đời của máy tính điện tử: Các máy tính cỡ lớn trước hết có dùng ống chân không và sau đó là các transistor để giải các thuật toán logic xuất hiện vào những năm 1940 đến 1950. Công nghệ này là bước tiến vĩ đại cho sự hình thành của máy tính điện tử. Vào năm 1957, công ty máy tính điện tử Casio, Nhật Bản cho ra đời máy tính Model 14-A. Đây là máy tính điện tử toàn phần với thiết kế nhỏ gọn trước hết trên thế giới. 14-A không dùng logic điện tử mà dựa trên công nghệ chuyển tiếp được tích hợp vào bàn điều khiển để giải quyết các phép tính.
Hình ảnh chiếc máy tính Casio Model 14-A Đến tháng 11 năm 1961, ANITA (A New Inspiration To Arithmetic/Accounting) máy tính giao diện điện tử toàn phần trước hết trên thế giới được ban bố bởi công ty máy tính thương nghiệp Anh Bell Punch. Cỗ máy này dùng các cẳng chân không, ống ca-tôt lạnh và Dekatron (ống khí đếm 3 thời đoạn) để giải quyết các phép toán. Màn hình hiển thị được chế tác từ 12 ống ca-tôt lạnh tạo thành đèn Nexie. 2 Model của ANITA là MK VII và MK VIII được phổ quát rộng rãi khắp châu Âu và nhiều nơi trên thế giới vào đầu năm 1962. MK VII có thiết kế nhẹ và thực hiện được các phép nhân phức tạp. Sau đó MK VIII ra đời với thiết kế và cách vận hành đơn giản hơn. Tuy ANITA có đầy đủ bàn phím và vận dụng các thiết bị điện tử để thực hành phép tính, nhưng vẫn hoạt động dựa trên nguyên lý đếm của các máy tính cơ đương thời. Chính vì lẽ đó, đến khi máy tính điện tử dùng thuật toán logic ra đời, ANITA chóng vánh bị chìm vào quên lãng.
HìnhTính đến giữa tháng 4-2013, toàn Ngành mới có 13 hệ thống camera giám sát lắp đặt tại các đơn vị: Cục Hải quan Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Lào Cai, Tây Ninh, Đồng Nai, Bình Dương, Đà Nẵng. Tuy nhiên, đa số các cục hải quan được trang bị camera mới chỉ có camera quan sát, rất ít đơn vị được trang bị camera nhận dạng.Việc trang bị đồng bộ hệ thống camera quan sát và camera nhận dạng tại cảng nội địa, cửa khẩu sân bay quốc tế, cảng biển, cửa khẩu đường bộ đảm bảo công tác giám sát hải quan 24 giờ/7 ngày; nhận dạng số container, biển kiểm soát ô tô và thời gian vận chuyển ra vào khu vực giám sát hải quan.Phó trưởng Phòng Nguyễn Thị Chung Thủy cho biết thêm, Cục Hải quan Hà Nội quản lý 3 cảng nội địa (ICD): Thụy Vân (Phú Thọ), Gia Thụy, ICD Mỹ Đình và mới chỉ có một ICD có hệ thống camera giám sát do DN lắp đặt. Để đồng bộ việc lắp đặt hệ thống camera giám sát hải quan tại các ICD, đơn vị cũng đang rà soát thực tế địa bàn đề xuất Tổng cục Hải quan trang bị hệ thống camera giám sát. Ảnh chiếc máy tính ANITA MK VIII Đến năm 1963, công nghệ ống ca-tôt chân không của công ty Bell Punch được nhà sản xuất Friden của Mỹ thay thế bằng phương pháp sử dụng các transistor. Nhà sản xuất Friden cho ra đời mẫu máy tính EC-13 với màn hình CRT 13 cm hiển thị được 13 ký tự. EC-13 được giới thiệu đến thị trường với các ký pháp RPN (reverse Polish notation - Ký pháp toán học Ba Lan ngược) với giá 2200 USD, đắt hơn gấp 3 lần so với các máy tính cơ đương thời.
Máy tính Friden C-13 của nhà sinh sản Friden Video dùng máy tính Friden Năm 1964, máy tính CS-10A dùng số lượng transistor lớn hơn được công ty Sharp giới thiệu. CS-10A nặng 25 kg và được bán ra thị trường với giá 500.000 Yên (khoảng 2500 USD). Cùng thời kì đó, công ty sản xuất máy công nghiệp Elttroniche của Ý giới thiệu máy tính IME 84 với bàn phím được bổ sung thêm và trang bị màn hình rộng hơn. Tiếp theo đó là hàng loạt các mô hình máy tính điện tử đến từ các nhà sản xuất như Canon, Mathatronics, Olivetti, SCM (Smith-Corona-Marchant), Sony, Toshiba, và Wang. Các mẫu máy tính thời gian này đều sử dụng các transistor germanium (có giá rẻ hơn transistor silicon) gắn trên các bảng mạch điện tử. Các loại màn hình được dùng bao gồm màn hình CRT, ống ca-tôt lạnh và đèn filament. Máy tính thường sử dụng bộ nhớ trễ hoặc lõi từ tính. Bên cạnh đó, Toshiba cho ra đời máy tính Toscal BC-1411 sử dụng thành phần bộ nhớ hoạt động hao hao như một hệ thống RAM được ghép từ các linh kiện rời rạc. BC-1411 có thiết kế nhỏ gọn hơn và tiêu thụ năng lượng ít hơn.
Hình ảnh chiếc máy tính Toscal BC-1411 của Toshiba Năm 1965, công ty Olivetti giới thiệu Olivetti Programma 101, một máy tính chứa chứa chương trình được soạn sẵn cho phép đọc và ghi lên một thẻ từ song song in kết quả thông qua một máy in được tích hợp bên trong. Programma được trang bị bộ nhớ, dây trễ âm có khả năng thực hiện thuật toán được lập trình sẵn qua từng bước, tích hợp sẵn các hàm số và có khả năng ghi dữ liệu. Programma 101 còn có khả năng đọc và ghi dữ liệu lên một thẻ từ. Đây chính là chiếc máy tính cá nhân đầu tiên (máy tính được lập trình sẵn cho những người dùng không biết lập trình) và đã được trao tặng nhiều giải thưởng công nghiệp.
Máy tính Programma 101 của Olivetti Một mẫu máy tính khác được giới thiệu vào năm 1965 là Bulgaria's ELKA 6521 được phát triển bởi Học viện công nghệ máy tính và được chế tác tại nhà máy Elektronika, Sofia. ELK 6521 nặng 8 kg và là máy tính trước tiên trên thế giới có thể thực hành chuẩn xác phép rút căn bậc 2. Cuối năm 1965, ELKA 22 ra đời với màn hình huỳnh quang và tiếpPhó trưởng Phòng Giám sát quản lý, Hải quan Hà Nội Nguyễn Thị Chung Thủy cho biết, đối với cửa khẩu sân bay quốc tế Nội Bài, hệ thống camera tại Nhà ga T1 Nội Bài được trang bị từ năm 2002 hiện vẫn đang tiếp tục sử dụng, không nâng cấp vì trong thời gian tới hoạt động Hải quan sẽ chuyển sang nhà ga T2, nhà ga T1 chuyển thành phục vụ khách nội địa. Tuy nhiên, để đáp ứng hoạt động hiện tại của Hải quan Nội lap dat camera quan sat tai ha noi Bài, đơn vị đã bảo dưỡng, sửa chữa những camera bị hỏng để đảm bảo công tác giám sát hải quan. Sau khi nhà ga T2 đi vào hoạt động, hệ thống camera giám sát hải quan sẽ đáp ứng yêu cầu giám sát hải quan tại các khu vực quan trọng như sân đỗ tàu bay; khu vực làm thủ tục cho hành khách xuất, nhập cảnh; khu vực kho hàng theo quyết định của Tổng cục Hải quan. Hệ thống sẽ giám sát toàn cảnh và theo dõi liên tục được hàng hóa, hành lý vận chuyển, người qua lại… Tại khu vực làm thủ tục, hệ thống giám sát được toàn cảnh và theo dõi liên tục hàng hóa, hành lý vận chuyển, hành khách, công chức hải quan và các đối tượng khác có liên quan trong khu vực giám sát.
Mẫu máy tính Bulgaria's ELKA 6521 rốt cuộc, vào năm 1967, công ty máy tính vẫn còn lừng danh cho đến hiện tại là Texas Instrument đã phát triển máy tính mang tên Cal Tech có khả năng thực hiện 4 phép tính cơ bản và ghi kết quả hiển thị trên một băng giấy. Cal Tech chính là chiếc máy tính cầm tay trước tiên trên thế giới với khả năng tính toán xác thực và đáng tin cẩn.
Máy tính "Cal Tech" của công ty lừng danh Texas Instrument tuổi thập niên 1970 đến 1980: Máy tính đã có thể bỏ túi! Nếu các máy tính ở những năm 1960 với kích thướt lớn, dùng hàng trăm bóng bán dẫn trên nhiều bảng mạch, sử dụng nguồn điện 1 chiều, tiêu thụ lượng điện năng lớn thì trong thời đoạn 1970, sự ra đời của vi mạch và các chip điện tử là một giải pháp khôn xiết đáng giá. Các nhà sinh sản đã ráng tạo nên các bảng vi mạch với các bóng bán dẫn kích thướt nhỏ được tich hợp sẵn bên trong cho phép tạo nên các máy tính với kích tấc nhỏ gọn hơn. Từ đó đã hình thành nên các liên minh công nghệ giữa Nhật và Mỹ bao gồm: Canon Inc. Với Texas Instruments, Hayakawa Electric (sau này là tập đoàn điện tử Sharp) với Công ty vi điện tử Bắc Mỹ Rockwell, Busicom với Mostek và Intel, và General Instrument với Sanyo. Các liên minh công nghẹ đã tạo nên máy tính có kích thướt nhỏ và tiêu thụ điện năng ít hơn, có thể sạc được. Tiếp theo thành công của Texas Instruments là các máy tính cầm tay có khả năng sạc đến từ Nhật Bản. Đó là "máy tính mini" ICC-0081 của Sanyo, Pocketronic của Canon và "Micro Compet" QT-8B của Sharp. Trong số các máy tính nêu trên, Pocketronic không có màn hình hiển thị. Thay vào đó, kết quả tính tình được in trực tiếp lên giấy nhiệt. Bằng cụ rất lớn trong việc tạo nên máy tính kích tấc nhỏ và tiêu thụ ít điện năng, năm 1971, Sharp cho ra đời máy tính Sharp EL-8 (còn có tên gọi khác là Facit 1111) với kích thướt nhỏ gọn, chỉ nặng 155 gram, trang bị màn hình huỳnh quang chân không và sử dụng pin NiCad có thể sạc được. EL-8 được bán ra thị trường với giá 395 USD.
Máy tính Sharp EL-8 Tiếp theo, vào năm 1971, Pico Electronic và General Instrument cho ra đời máy tính dùng IC được tích hợp chỉ một chip xử lý độc nhất vô nhị mang tên Monroe Royal Digital III. Đây chính là thành công vượt bậc trong việc chế tác các máy tính nhỏ gọn có thể bỏ túi.
Máy tính nhỏ gọn Monroe Royal Digital III rốt cuộc, chiếc máy tính có thể thật sự có thể bỏ túi đã ra đời vào năm 1971. Đó là mẫu máy tính LE-120A do công ty Busicom của Nhật sản xuất. LE-120A "HANDY" là máy tính trước nhất được trang bị màn hình LED hiển thị kết quả. Đây cũng là máy tính cầm tay trước hết sử dụng 1 vi xử lý độc nhất vô nhị để giải quyết các thuật toán.
Máy tính bỏ túi LE-120A HANDY của Busicom Tiếp theo thành công của LE-120A là mẫu máy tính Mostek MK-6010, máy tính trước hết dùng pin 4 pin AA có thể thay thế được. MK6010 có kích thướt 124x72x24 mm, kích thướt nhỏ gọn trợ thì bấy giờ.
Máy tính trước tiên sử dụng pin AA, Mostek MK-6010 Trong khi đó, năm 1972, Hewlett packard (HP) cho ra đời mẫu máy tính bỏ túi HP-35 với giá 395 USD. HP-35 không sử dụng phương pháp nhập liệu đầu vào thường nhật, đây là mẫu máy tính điện tử bỏ túi trước tiên sử dụng ký pháp RPN (còn gọi là ký hiệu tiền tố) để thực hành các phép tính khoa học. Đây là phương pháp theo chuẩn tâm tính của người Do Thái, nếu muốn thực hiện phép tính "8 cộng 5", theo phương pháp thường, người ta gõ các phím theo trật tự [8], [+], [5], [=]. Nhưng theo hệ RPN, ta gõ [8], [Enter|], [5], [+] và kết quả sẽ được hiển thị. Máy tính HP-35 Năm 1973, Sinclair Cambridge, chiếc máy tính giá rẻ trước tiên được bán ra với giá chỉ có 29,95 Bảng Anh. Tuy nhiên, do được sinh sản với giá thành rẻ nên Sinclair vấp phải vấn đề về tính chính xác của kết quả, đặc biệt là khi tính nết các hàm số siêu đẳng. Cũng trong thời gian này, Texas Instrument cho ra đời máy tính khoa học SR-10 được bổ sung thêm khả năng tâm tính theo biến "n" và sau đó là mẫu SR-50 với khả năng tính toán hàm số logarit và lượng giác để cạnh tranh với HP-35. Cả 2 mẫu máy tính khoa học của Texas Instruments và HP đều được nối phát triển và sản xuất cho đến ngày nay.
Máy tính giá rẻ trước hết SInclair Cambridge Năm 1978, một công ty mới là Calculated Industries nhảy vào thị trường sinh sản máy tính khoa học với các mẫu máy dành riêng cho từng lĩnh vực cụ thể. CI đã cho ra đời các mẫu máy Loan Arranger dành cho các hàm tài chính, Construction Master dùng để tính toán các tham số tiêu chuẩn chuyên ngành xây dựng. Thời đoạn giữa những năm 1980 đến nay Sự phát triển chóng vánh của khoa học công nghệ cho phép các nhà sản xuất chế tạo máy tính khoa học giá rẻ. Các máy tính thường nhật với các chức năng xem cơ bản chỉ có giá vào khoảng vài USD nhưng vẫn cho phép thực hiện các phép tính một cách chính xác và đáng tin tưởng.#.
Máy tính HP-28C có thể giải phương trình bậc 2 Năm 1987, máy tính HP-28C ra đời. Đây là máy tính đầu tiên sử các ký hiệu toán học để tính hạnh và giải phương trình bậc 2. Năm 1985, máy tính trước nhất có khả năng vẽ đồ thị theo một hàm số cho trước là Casio FX-7000G được ra mắt.
Máy tính vẽ đồ thị trước tiên - Casio FX-7000G Hai nhà sản xuất máy tính tiền phong là HP và TI liên tiếp cho ra mắt các máy tính khoa học được cải tiến, bổ sung thêm chức năng từ năm 1980 đến những năm 1990. Bước sang thế kỷ 21, ranh giới giữa máy tính đồ họa và một máy vi tính xách tay ngày càng mỏng mảnh hơn. Các máy tính khoa học hiên đại như TI-89, Voyage 200 và HP-49G đều có thể tính hạnh được các hàm vi phân và tích phân, giải được các phương trình vi phân, xử lý các chuỗi ký tự và chạy phần mềm quản lý dữ liệu cá nhân chủ nghĩa. Các máy tính còn được trang bị kết nối không dây và cổng hồng ngoại để giao du với máy vi tính hay các máy tính khoa học khác. Máy tính tài chính HP-12C ra đời vào năm 1981 với nhiều nhiều chức năng có ích vẫn còn được tiếp tục sử dụng rộng rãi cho đến ngày nay. HP-12C vẫn kề với phương pháp nhập liệu tiền tố RPN. Cho đến năm 2003, hàng loạt các phiên bản cải tiến của HP-12C được sản xuất. Trội nhất là phiên bản "HP-12C platinum edition" được trang bị nhiều bộ nhớ hơn, tích hợp sẵn nhiều hàm tài chính và thêm vào đó là chế độ nhập dữ liệu đại số.
Máy tính tài chính huyền thoại HP-12C HP-12C là máy tính cực kỳ nức tiếng và được người dùng trong lĩnh vực tài chính chuộng do được tích hợp sẵn các hàm số tài chính hiện đại như "I", "PV", "FV" và dễ dàng tính được các chỉ số lãi, lãi ròng, giá trị của dòng tiền theo thời kì,… Tuy nhiên do vẫn dùng phương pháp nhập liệu theo chuẩn Do Thái nên gây gổ khó khăn trong quá trình dùng cho những người không có kiến thức chuyên môn. Từ những năm 1990 đến nay, các máy tính bỏ túi luôn được các nhà sinh sản đương đại hóa và cho ra đời những mẫu sản phẩm có tính chuyên môn hóa cao hơn để thích hợp với nhiều lĩnh vực.
Máy tính Casio FX-570 MS - Gắn liền với đời học trò 9X Việt Nam Kết Vậy là qua hơn 400 năm, từ chiếc máy đếm cơ học nguyên sơ của Pascal, sang trọng chiếc bánh xe huyền thoại của Leibniz, cho đến chiếc máy tính CS-10A của Sharp nặng 25 kg, qua bao gắng đến ELK 6521 giảm xuống còn 8 kg, rồi LE-120A "HANDY" của Busicom đã có thể bỏ túi, chung cục qua hàng loạt cải tiến và nâng cấp về chương trình cũng như phần cứng, chúng ta đã có chiếc máy tính bỏ túi chỉ chiếm một ngăn nhỏ trong chiếc cặp của học trò mà trong lượng chưa đến 200 gram. Vẫn là câu nói khi viết về các phát minh, thật thán phục trước cố và khả năng sáng tạo của con người đặc biệt là các nhà phát minh: "Biến cái không thể thành có thể" để cuộc sống của con người trở nên đơn giản và dễ dàng hơn. Cám ơn các bạn đã theo dõi bài viết, hẹn gặp lại các bạn trong chủ đề lần tới của chuyên mục "Mỗi tuần 1 phát minh" được phát hành định kỳ vào Chủ nhật hàng tuần trên tinhte.Vn. Chúc các bạn có một ngày cuối tuần vui vẻ. ![]() File đính kèm: a">
03 800px-Leibnitzrechenmaschine.Jpg File size: 91.7 KB Xem: 0
05 dalton machine.Jpg File size: 32.8 KB Xem: 0 |
Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2013
[Mỗi tuần 1 phát minh] Lịch lap dat camera sử chiếc máy tính bỏ túi
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)




























0 nhận xét:
Đăng nhận xét